CHƯƠNG II: Ma quỷ phá rối ở Lộ Đức

CHƯƠNG II : MA QUỶ PHÁ RỐI Ở LỘ ĐỨC (1858-1859)

MỘT THÀNH PHỐ NHỎ TRỞ THÀNH NỔI TIẾNG
Làng Ars, một làng đơn sơ tầm thường bỗng trở thành nổi tiếng vì có một cha sở thánh thiện: trước ngài, nó hoàn toàn không được thế giới biết đến. Nhưng làng Lộ Đức được nổi tiếng lại không hoàn toàn theo cùng một cách thức như vậy. Trong cuốn La France pittoresque (Nước Pháp kiều diễm) xuất bản năm 1835, tác giả Abel Hugo, là anh cả của Victor Hugo, đã nói về Lộ Đức bằng những từ ngữ này: “Cái thủ phủ của Lavedan-en-Bigorre ở phía trước đây ngày xưa tên là Miranbel, theo thổ ngữ của vùng, từ này có nghĩa là đẹp mắt”.
Lộ Đức có một lâu đài cổ chủ yếu được dùng làm nhà tù từ thế kỷ XIV. Theo Abel Hugo, thì lâu đài này vừa được sửa chữa lại. Ông còn mô tả thêm:
“Thành phố bao quanh một tảng đá ở phía đối diện với con suối Gave. Nó trải dài trong một cái khe, có một dòng suối chảy băng ngang khe. Thành phố được xây dựng một cách thích đáng, nhưng không đều đặn, không có một dinh thự nào to tát điểm trang cho thành phố cả, nhưng nó lại có một vị trí thuận lợi, là nơi tiếp giáp của bốn thung lũng có các đường tới Pau, Tarbes, Barège và Bagnères chạy khắp”.
Nhưng không phải vì cảnh đẹp mà năm 1958 hàng triệu người đã tới đó, thực ra họ tới để hành hương. Năm đó là năm kỷ niệm 100 năm Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức. Hiện ra như thế nào? Cả thế giới đều biết. Ngày 11.2.1858, một cô bé rất đơn sơ, rất nghèo nàn, rất dốt nát, nhưng rất đạo đức, tên là Bernadette Soubirous, bỗng nhiên trông thấy “một thiếu nữ bận quần áo trắng” hiện ra ở hốc một tảng đá, ngay lối vào hang Massabieille. Trong khoảng từ 11.2 đến 16.7, còn 18 lần hiện ra như thế nữa.
Nhưng mục đích của chúng tôi hiển nhiên không phải là kể lại những lần Đức Mẹ hiện ra đó cho độc giả ở khắp các nước trên thế giới, mà là nói về sự can thiệp của ma quỷ vào những lần hiện ra này.
Ma quỷ đã can thiệp vào những lần Đức Mẹ hiện ra một cách lạ lùng này. Điều đó không có gì đáng ngạc nhiên. Nếu nó im lặng hay vắng mặt thì mới là chuyện đáng ngạc nhiên. Nó đã từng quậy phá ở Ars, làm phiền nhiễu một vị thánh. Làm sao nó bỏ qua được những gì đang xảy ra ở Hang Đá kì diệu này? Rất nhiều tác giả đã viết về Lộ Đức, và tất cả đều nhấn mạnh đến sự can thiệp của ma quỷ. Sự can thiệp đó, các nhà thần học gọi là những quấy nhiễu. Trong chương này, chúng ta sẽ đề cập đến những trò quái đản mà chỉ có Satan mới bày ra để phá rối sự việc này.

NHỮNG PHÁ RỐI ĐẦU TIÊN
Một trong những người đầu tiên tường thuật về những lần Đức Mẹ hiện ra này là anh chàng J.B Estrade, một tường thuật viên xuất sắc. Theo anh, thì kể từ ngày 19.2.1858, khi Đức Mẹ hiện ra lần thứ tư, ma quỷ đã bắt đầu quấy nhiễu.
Sau khi Đức Mẹ hiện ra lần đó tại Hang Đá, khi trở lại thành phố, Bernadette cho biết là có những tiếng la hét nghe lạ thường và kì dị đã phá rối việc Đức Mẹ hiện ra. Dường như những tiếng la hét ấy vọng lên từ con suối Gave. Tiếng la hét rất nhiều và có vẻ như đối đáp nhau. Chúng kêu gọi nhau, giao thoa nhau, như những tiếng om sòm của một đám đông đang náo loạn. Giữa những tiếng lạ tai ấy, có một giọng nói rõ ràng hơn nghe có vẻ điên dại, được vang lên như một lời đe dọa: “Hãy trốn đi! Trốn đi!”.
Mệnh lệnh đó nói với ai vậy? Bernadette hiểu ngay rằng không phải nói với cô cho bằng nói với “thiếu nữ áo trắng” đó mà cô chưa biết tên, đang hiện ra với một đôi mắt xuất thần, vì nếu cô có bị nguy hiểm thì nào có ý nghĩa gì? Vẫn theo J.B Estrade, Thiếu Nữ hiện ra trong ánh sáng đó chỉ cần quay mắt trong chốc lát về phía xuất phát những tiếng la hét đó, là những tiếng đó ngừng bặt ngay. Thật là những ánh mắt hữu hiệu, như có một quyền lực tối thượng!
J.B Estrade tuyên bố rằng bài tường thuật về cuộc phá rối đầu tiên của ma quỷ này là do Bernadette trực tiếp kể lại cho ông và em gái của ông. Cha Nogaro, cha sở nhà thờ chính toà Tarbes, cả ngài nữa, cũng đã tiếp xúc với “chính cô gái xuất thần ấy”.
Cũng như Đức Cha Trochu, chúng tôi nghĩ rằng phải chấp nhận sự kiện đó có thực. Nhưng chúng tôi nghi ngờ về cái ngày tháng xảy ra sự kiện. Thật vậy, cha Cros Dòng Tên là người nghiên cứu tỉ mỉ những gì liên quan tới những lần Đức Mẹ hiện ra, đã không nói tới sự kiện đó vào ngày 19.2 và cả sau đó nữa. Vả lại, nhiều lần cha đã bắt quả tang những khiếm khuyết về trí nhớ của anh chàng Estrade tốt lành ấy, đến nỗi người ta có chiều hướng cho rằng anh ta đã dời cho cái tình tiết này, nghĩa là anh ta đã dời ngày tháng xảy ra sự kiện đó về phía trước. Chúng tôi không bài bác ông, chắc chắn như vậy, nhưng chúng tôi nghĩ rằng việc đó về sau mới xảy ra.
Bây giờ chúng ta hãy nói tới những “trò ma quỷ” có ghi ngày tháng rõ ràng hơn, và do đó chắc chắn hơn. Nhưng chúng tôi dự định chỉ đưa ra những sự kiện đã được xác nhận rõ rệt, nên chúng tôi sẽ theo các tài liệu của cha Cros một cách sâu sát. Trước hết là đưa ra các dữ kiện, rồi sau đó mới đưa ra các nỗ lực giải thích.

RẤT NHIỀU NGƯỜI BỊ ẢO KIẾN
Hôm đó là ngày thứ năm, ngày 15.4.1858, ông thôn trưởng Lộ Đức là Lacadé, đã làm một bản tường trình đầu tiên cho ông xã trưởng Argelès về những người tự cho rằng mình thấy Đức Mẹ hiện ra, khác với Bernadette Soubirous. Chúng ta hãy lưu ý tới ngày tháng xảy ra các sự kiện. Theo những tính toán của cha Cros, thì có 18 lần hiện ra từ ngày 11.2 đến ngày 7.4.1858 (còn một lần hiện ra nữa với Bernadette vào ngày 16.7 mà cha Cros không kể tới. Theo cha, loạt hiện ra đã chấm dứt vào ngày 7.4.1858). Loạt hiện ra của Đức Mẹ đã chấm dứt. Bernadette sẽ ở ngoài vòng những gì xảy ra sau đó. Chúng ta hãy đọc bài tường thuật của ông thôn trưởng. Ông viết:
“Thứ bảy tuần trước, 10.4.1858, có ba cô gái làng Lộ Đức tới Hang Đá cầu nguyện vào lúc 2 giờ trưa. Các cô xác nhận rằng Đức Trinh Nữ hiện ra với họ. Một trong ba cô, theo lời yêu cầu của cha sở, đã viết một bản khai báo mà cha sẽ gởi lên cho Đức Giám mục địa phận:
‘Con tên là Pauline Labantès, vào lúc 10 giờ sáng hôm qua, 14 tháng 4, đã tới Hang Đá để cầu nguyện, và nói rằng con đã thấy Đức Trinh Nữ hiện ra'”.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là khởi đầu. Ông Jacomet, một viên cảnh sát rất có lương tâm, đã viết những bản tường trình, theo như bổn phận mình, gởi cho xã trưởng, rồi gởi cho tri huyện.
Số người tự cho là mình thấy Đức Mẹ hiện ra càng ngày càng nhiều. Bernadette lúc này có thể nói là “đã rút lui vào bóng tối”. Cô không còn tranh đua với biết bao người đang thấy những điều kì diệu đó làm gì! Ông cò đưa ra những chi tiết rất chính xác. Những chi tiết này rất hữu hiệu để dư luận có thể thẩm định được giá trị của những thị kiến mới xuất hiện này. Những thị kiến ấy xảy ra ở đâu? – Không bao giờ xảy ra ở chính cái chỗ mà Bernadette đã thấy Đức Mẹ hiện ra, đã nghe chính miệng Ngài xưng danh hiệu của Ngài. Dường như có một sự che chở vô hình bao quanh nơi này, cũng như đã bao quanh chính bản thân Bernadette. Sau thời gian được Đức Mẹ hiện ra, Bernadette vẫn luôn luôn rất “tự nhiên”, nghĩa là rất giản dị, rất dốt nát, nhưng rất ngay thẳng, rất chân thành. Đó là những điểm để chúng ta so sánh với những người tự nhận rằng mình thấy Đức Mẹ sau này.
Ngày 10.4.1858, có năm cô tự nhận mình thấy Đức Mẹ, chứ không phải ba cô như trong trình thuật của ông thôn trưởng. Ông cò viết:
“Một cô là Claire-Marie Sazenave, 22 tuổi, là một cô gái đức hạnh, có đức tin nhiệt thành nhưng lại có óc tưởng tượng cao độ. Cô nói: ‘Tôi thấy một tảng đá trắng, hầu như cùng lúc với hình một phụ nữ, dáng dấp bình thường, tay trái bồng một đứa trẻ: gương mặt tươi cười, tóc hình xoáy ốc rủ xuống vai; trên đầu có một cái gì trăng trắng, dựng đứng lên như được chải bằng một cái lược, và cuối cùng là bận một áo dài trắng. Còn đứa trẻ, tôi chỉ nhìn thấy lúc đầu không được rõ ràng lắm, sau đó tôi không còn thấy nữa’.
Cô thứ hai là Madeleine Cazaux, 45 tuổi, đã lập gia đình, là một đàn bà hư hỏng, thích uống rượu, nói về thị kiến của mình như sau: ‘Tôi thấy trên một hòn đá trắng có một cái gì đó, có dáng dấp như một cô gái mười tuổi, đầu đội “voan” trắng rủ xuống vai, còn tóc thì thả xuống tới ngực. Mỗi lần cây đèn cầy bị dời chỗ một chút, thì hình đó biến mất’.
Cô thứ ba là Honorine Lacroix, trên 40 tuổi, là một gái điếm, phong cách đê tiện, có nói rằng chị ta trông thấy Đức Trinh Nữ trước tiên. Chị nói: ‘Đức Trinh Nữ có hình dáng một cô bé 4 tuổi, đầu phủ một tấm “voan” trắng, tóc thả xuống vai và chải ngược lên ở trán. Mắt ngài xanh, tóc hoe vàng, phần dưới khuôn mặt rất trắng, còn đôi má thì hồng’.
Còn hai cô gái lạ, người ta nói là một cô cũng thấy, và người ta không nghe nói gì hơn nữa: họ chẳng biết hai cô này từ đâu tới”.
Tất cả những việc đó, mới nghe, thấy rất khả nghi! Nhưng khả nghi hơn nữa, chính là cái nơi xảy ra những cái-được-gọi-là-hiện-ra ấy.

NƠI CHỐN HIỆN RA
Ông cò còn mô tả rõ ràng hơn.
Sau những lần Đức Mẹ hiện ra với Bernadette, Hang Đá trở thành nơi hành hương của dân chúng. Vì thế, người ta dựng nên ở đó một bàn thờ. Những khách thăm viếng mang đến những bông hoa ngoài đồng hay trong vườn, và để lại đó những lễ vật họ dâng cúng. Hang Đá có hình dáng một cái bếp lò sâu khoảng 4 mét, vòm cao 2 mét 6. Lên cao khoảng 2 mét rưỡi, nghĩa là tại một điểm người ta không cần thang cũng có thể với tới, mở lên phía trên vòm một lỗ thông đi thẳng lên ở bên trong tảng đá. Lỗ thông này có thể dài 4 mét, và mở rộng ra thành một khoảng trống hình quả trứng với đường kính khoảng 2 mét 6. Tiến sâu lên nữa, lỗ thông này lại hẹp trở lại. Và sâu lên 4 mét nữa thì lỗ thông bị bít lại, nhưng nếu nhìn từ đó với ánh sáng đèn cầy, ta có thể thoáng thấy những bề mặt của vách đá màu trăng trắng.
Rõ ràng là muốn vào trong cái hốc đá ấy, phải thường xuyên nằm sát bụng xuống mặt đất và trườn tới, trong một tư thế rất bất tiện, không có vẻ trang nhã chút nào đối với phụ nữ. Hơn nữa, lần đầu tiên, những phụ nữ “được thị kiến” này đâu có mang theo thang để leo lên như những người sau sẽ làm, nên họ đã phải trèo lên bàn thờ một cách “vô liêm sỉ”, vì bàn thờ được dựng ở đáy Hang Đá, rồi đứng trên bàn thờ mà trèo lên cái lỗ thông hơi kì bí mà chúng tôi vừa mô tả sơ lược. Họ phải đốt đèn lên để thấy đường, và ánh sáng chập chờn đó chắc chắn sẽ làm hiện ra những hình bóng thay đổi, mà với một chút tưởng tượng, người ta có thể thấy những hình bóng đó khi thì thành một phụ nữ với dáng dấp bình thường, khi thì thành một cô gái 10 tuổi, hay thậm chí 4 tuổi.
Ông cò diễn tả rõ ràng với giọng điệu bài bác:
“Hôm đó là thứ bảy, mùng 10.4, lần đầu tiên các phụ nữ đó mạo hiểm vào thăm cái nơi mà tôi vừa mô tả cho các bạn. Không có gì giữ họ lại được cả, cả cái bàn thờ mà họ phải đạp lên, cả sự đoan trang mà phụ nữ phải có. Họ gồm 5 người, một nhóm kì cục, khác biệt nhau rất nhiều về tuổi tác, phong cách, thói quen”.
Cuộc thăm viếng đầu tiên này không gây nhiều ồn ào. Trong số ba người thị kiến ấy, thì Marie Sazenave là người đàng hoàng nhất. Theo ông cò thì dường như cô ta đã “hổ thẹn về những gì mà mấy người bất xứng cùng đi với cô khai rằng đã thấy”. Nhưng dầu vậy, sự việc đó cũng được đồn thổi ra. Sự tò mò vẫn mạnh hơn là nỗi sợ dư luận. Nhiều phụ nữ đã thay phiên nhau vào trong cái hốc xó đó. Rất nhiều người không thấy gì cả và đã trở về với tâm tình hụt hẫng bối rối. Nhưng ngày 14.4, một phụ nữ giúp việc 50 tuổi, tên là Sazette Lavantès, đã leo lên cái lỗ thông đó, và trở về hết sức hớn hở. Người ta xúm xít quanh bà ta hỏi han. Bà đã thấy. Bà vẫn còn run rẩy. Bà ta thấy gì vậy? Bà ta nói: “Một hình thể trắng, cao gần bằng tôi, có một thứ hơi nước làm thành một tấm “voan”, và ở dưới là một cái áo dài lê thê, nhưng tôi không thấy rõ hình thể người, không đầu, không tay, không chân, không có phần nào của thân thể con người gì cả. Tóm lại, điều tôi thấy không có gì là rõ ràng, nó mơ hồ đến nỗi tôi không biết đó là cái gì”.
Chính những yếu tố đó đã gây ra những xung động. Kể từ lúc đó, những cuộc thăm viếng tới cái lỗ thông rất khó leo lên đó càng ngày càng nhiều. Ngày 17.4, lần đầu tiên cả đàn ông và đàn bà hợp nhau lại để thám hiểm. Một thiếu nữ 15 tuổi tên là Joséphine Albario bật khóc lên và xúc động. Người ta trấn an cô và dẫn cô về. Họ bắt buộc phải đưa cô về nhà cô và đặt cô nằm trên giường. Cô tuyên bố là cô đã thấy “Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, đang bồng một em nhỏ trên tay, và bên cạnh có một người đàn ông râu dài”. Dẫu nằm trên giường, những hình ảnh ấy dường như vẫn ám ảnh cô!
Từ đó, nhiều người cảm thấy lo sợ. Có hai luồng tư tưởng tự nhiên thành hình. Một số người đầy ngưỡng mộ, tin vào bất kì vụ hiện ra nào, của Bernadette cũng như của những người “thị kiến” sau này. Những người còn lại cảm thấy chướng tai vì những tình tiết khác nhau giữa những người “thị kiến” sau này, nên không tin gì nữa, kể cả những thị kiến của Bernadette. Hai luồng tư tưởng đó khiến người ta rất hoang mang. Ngày 18.4, người đầy tớ gái của ông thôn trưởng bị chấn động, vì chị ta tin rằng chị ta cũng trông thấy một cái gì!
Nhưng lần này, chị ta không cần phải leo lên cái lỗ thông ở trong tảng đá, vì đang khi chị lần hạt trước bàn thờ trong Hang Đá, thì chị bị chấn động. Ông thôn trưởng rất tin tưởng vào người tớ gái của mình. Ông cho người thí nghiệm xem ánh sáng có thể khêu gợi lên những thị kiến không, những thị kiến đã xoay chuyển được đầu óc của nhiều phụ nữ như thế! Ngày 19.4, một ban thẩm tra muốn biết đích xác sự việc đó thế nào, nên đã vào trong hang phía trên. Có thể giải thích một cách tự nhiên những thị kiến, nhất là thị kiến của Joséphine Albario, đã khiến cô ta xuất thần suốt 45 phút không? Nhưng kết quả cuộc thẩm tra đó là không giải thích được gì cả.
Tuy nhiên, người ta nhận xét thấy những cuộc hiện ra với Bernadette được xảy ra trong những hoàn cảnh rất khác biệt với những cuộc hiện ra mà chúng tôi vừa nói.
Điều chắc chắn là đám đông có khuynh hướng lẫn lộn hai thứ đó với nhau. Những người nghiêm túc như ông cò Jacomet thì tin rằng họ có đủ chứng cớ để xác định ngay rằng cả hai loại đã hiện ra đó đều là những ảo giác đáng tiếc. Và ông biện lý Dutour sẽ viết cho ông tổng biện lý ngày 18.4, than phiền về thái độ của hàng giáo phẩm:
“Cái tâm tình tôn giáo đã bị sai lạc đi vì sự điên đảo và gian trá ấy, thế mà không có ai làm gì cả để xoay chuyển cái tâm tình tôn giáo đó khỏi con đường sai lạc mà nó đã đi sâu vào. Các thị kiến càng ngày càng nhiều, người ta không còn kể tới các phép lạ nữa: hàng giáo phẩm và ông thôn trưởng Lộ Đức dường như không còn bận tâm nào khác nữa ngoài việc tiếp nhận những cái đó”.
Và tới lượt ông, ông lại làm lại như ông cò Jacomet toàn bộ bản tường trình về những thị kiến mà chúng tôi vừa nói.
Chắc chắn là vào cuối tháng 4.1858, sự hoang mang tinh thần lên đến cực độ chung quanh những vụ hiện ra đó.

NỖI LO ĐẦU TIÊN
Tuy nhiên, một giọng nói đã vang lên, giọng nói mà chúng ta phải đón nhận, nó sẽ cho chúng ta nguyên tắc để phân biệt hai loại thị kiến. Chúng tôi đã nói rằng cho tới đó đã có hai khuynh hướng: hoặc chấp nhận tất cả, thán phục tất cả, hoặc kết án tất cả, loại bỏ tất cả. Lần đầu tiên có một linh mục đề cập đến một điều mà về sau được nhìn nhận là chân lý
Vào chính thời gian đó, trong số những người “thị kiến”, có một cô tên là Marie-Bernard, ở Carrière-Basse. Cha Pène kể lại rằng:
“Cô này cho rằng cô đã thấy tại hang Lộ Đức một nhóm gồm 3 người: một người nam có râu trắng, một người nữ khá trẻ, và một em bé. Ông già một tay cầm xâu chìa khoá còn tay kia vuốt râu. Ở thành phố, thoạt tiên, người ta nói có lẽ là gia đình Thánh Gia. Về sau, cô ta thấy lại những thị kiến đó và nhận xét thấy những nhân vật đó có những cử chỉ không được đoan chính. Nhận xét như thế về những cử chỉ đó là do chính cô gái “thị kiến” đó hay do những người thấy cùng một thị kiến đó nói ra, chứ không phải do tôi hay do em gái tôi nói ra. Tuy nhiên, cô gái này là hối nhân của tôi, nhiều lần cô đã kể cho tôi những sự kiện đó, nhưng tôi không lưu tâm tới, vì cho rằng đó chỉ là những thủ đoạn của ma quỷ muốn che lấp những lần Đức Mẹ hiện ra trước đó bằng bóng đen của chúng”.
Chính chúng tôi nhấn mạnh những dòng cuối cùng này. Dường như những dòng chữ đó đã giúp chúng tôi giải thích được toàn bộ những sự kiện đã xảy ra một cách hợp lý nhất.
Khi người ta cho rằng những thị kiến được thêm vào những lần Đức Mẹ hiện ra với Bernadette là do thần kinh bị kích thích, do tưởng tượng, do tinh thần bị truyền nhiễm, thì rõ ràng là như thế có lợi cho ma quỷ, và người ta thấy trong toàn bộ những tình tiết – mà chúng tôi mới chỉ kể có một phần – cò lòi ra một thủ đoạn: đó là thủ đoạn làm ngạt thở, bóp nghẹt những thị kiến rất chính thức và những lần hiện ra rất chắc chắn của Đức Trinh Nữ, bằng một loạt những bắt chước một cách xuyên tạc và méo mó, mà một phần nào dân chúng ở Lộ Đức đã chấp nhận một cách vội vàng, đang khi những người khôn ngoan nhất thì nhún vai.
Nhận chìm chân lý vào một đám dối trá, đó là một phương thức rất xứng hợp với ma quỷ. Điều đó giúp chúng ta hiểu rõ hơn những biến cố đã xảy ra hơn.
Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng, tuy những cấm đoán cũng như những đối kháng của những người không tin gây bất lợi cho những lần hiện ra đích thực – tức là những lần hiện ra với Bernadette – nó cũng vẫn có một tác dụng tốt là hạn chế và tiêu diệt những biểu hiện của ma quỷ khi chúng quấy nhiễu ngày càng nhiều hơn. Cuối cùng, với thời gian, người ta hiểu rằng không nên coi tất cả đều tốt, cũng không nên kết án tất cả, mà đơn giản là phải phân biệt tất cả.
Trong số những người bị ảo kiến, người được biết đến nhiều nhất là cô bé Joséphine Albario. Nhưng trường hợp của cô có quá nhiều bối rối, giao động và nước mắt. Ông Estrade – mà chúng tôi đã trích dẫn nhiều lần, vốn có trí phán đoán tốt hơn là trí nhớ – đã viết về cô, sau khi trong thâm tâm ông đã tin tưởng cô ngang với Bernadette:
“Tuy nhiên có một điều gì đó kín đáo ngăn cản lòng ngưỡng mộ của tôi và dường như báo trước cho tôi biết là chân lý không ở nơi cô này. Tôi bắt đầu so sánh và nhớ lại rằng: Trước sự hăng say của Bernadette vào sự việc tôi cảm thấy hoan hỉ, đang khi trước những hăng say của Joséphine, tôi chỉ ngạc nhiên. Tìm hiểu kĩ sự hăng hái của Bernadette, tôi hiểu rằng đó là một tác động xuất phát từ trời, còn khi đối diện với sự hăng hái của Joséphine, tôi chỉ thấy đó là những giao động của một cơ thể đã bị kích thích quá mức…”
Khi nói như vậy, Estrade cũng như mọi người có lương tri khác, đã thực hành một nghệ thuật cần thiết mà thánh Inhaxiô sáng lập dòng Tên gọi là “sự phân biệt các thần”. Và chính thánh Inhaxiô đã cùng lời khuyên quan trọng của thánh Phaolô thời bình minh của Kitô giáo làm phương châm: “Đừng dập tắt Thánh Linh, đừng coi thường những ơn tiên tri, nhưng hãy kiểm chứng lại tất cả: điều gì tốt thì giữ lấy!…” (1Ts 5,21)

NHỮNG PHÁN ĐOÁN HỢP LÝ
Vì thế, chân lý vẫn còn đang được thử nghiệm. Người ta đang dần dần thấy rõ ánh sáng hơn. Dẫu mục đích phải đạt tới còn khá xa, nhưng người ta đã xem thấy nó.
Nhưng trước khi đề cập đến một loạt những xáo trộn và giao động khác cho thấy sự quấy nhiễu đó là do ma quỷ một cách rõ ràng hơn, chúng ta hãy thêm một thí dụ nữa cho thấy sự đánh giá của mọi người về những “thị kiến” đang tranh đua với những thị kiến của Bernadette. Chúng ta vừa nói đến Joséphine Albario, một thiếu nữ rất tốt. Và đây là một cô khác: Marie Courrech, người tớ gái của chính ông thôn trưởng Lộ Đức. Nếu thuật lại ở đây chính những lời khai báo của cô do cha Cros thuật lại thì rất là dài (II, 96 và tt).
Nhưng điều đáng cho chúng ta lưu ý là phán đoán của Antoinnette Garros, một phụ nữ ở Lộ Đức: “Tôi không tin vào những thị kiến Marie Courrech: gương mặt của cô ta không giống như gương mặt của Bernadette, cử chỉ cũng vậy. Cô ta bị chấn động, hay rùng mình. Nhiều lần, khi trông thấy có gì hiện ra ở phía bên kia suối Gave là cô ta muốn lao mình về phía trước, bởi vì theo như cô ta nói, người hiện ra kêu cô ta tới hang. Nếu chúng tôi không hết sức giữ cô ta lại, thì cô ta sẽ lao mình xuống suối Gave. Một hôm, tôi phải ráng sức giữ cô ta lại, thì những người gần đó trông thấy liền la lên: ‘Cứ để cho cô ấy đi, nếu cô ta băng qua được suối Gave thì đó là phép lạ’. Nhưng tôi không nghe họ, tốt hơn tôi nên ngăn cản để cô khỏi chết đuối. Tôi tự nhủ: ‘Nếu Đức Mẹ muốn kêu cô ta băng qua suối Gave, thì Ngài sẽ gỡ được cô ta ra khỏi tay tôi’.
Từ những thí dụ và tranh luận này, ta có thể rút ra bài học là luôn luôn có một phương cách để phân biệt những ơn chính thức, những đoàn sủng đích thực, với những thứ giả hiệu làm giống như vậy của ma quỷ.

BỊ ẢO KIẾN CẢ ĐÁM
Những chuyện lộn xộn đó – cần phải gọi như vậy – không bị giới hạn lâu trong một vài phụ nữ hay thiếu nữ như những người mà chúng tôi đã trưng dẫn. Mà con số những “người bị ảo kiến”, càng ngày càng tăng lên, và bộ tịch của họ thường là tức cười, kì dị, khôi hài. Chúng ta sẽ nói đến tính cách của những bộ tịch đó. Cứ như thế kéo dài cho đến đầu năm 1859.
Khoảng 20 năm sau, cha Cros có tìm hiểu ý kiến của nhiều người cho biết về những người bị ảo kiến đó. Cha viết: “Vào tháng 6.1878 chúng tôi đã tìm lại được ở Lộ Đức tên của hơn 30 người bị ảo kiến, cả đàn ông lẫn đàn bà, gồm đủ loại tuổi: nhưng chúng tôi chỉ tìm thấy tên của những người nổi tiếng nhất, vì sau 20 năm, không còn ai hãnh diện là mình đã thấy Đức Mẹ hiện ra nữa cả”.
Cha Cros có những chứng cớ chứng tỏ những tường trình của ông cò Jacomet không có gì là quá đáng, cho dẫu người ta thường trách ông quá nghiêm khắc vì hiểu lầm rằng ông có thành kiến thù nghịch với những chuyện linh thánh. Thực ra, ông cò không nắm được hết các sự kiện: ông chỉ đưa ra được phần nào thôi, ngoài ra ông không biết hay không lưu tâm tới.
Những biểu hiện phá rối của ma quỷ đã lên tới mức quá đáng đến nỗi người ta cảm thấy hết sức chướng tai gai mắt, đến nỗi chính cha sở Lộ Đức, vào tháng 9.1858, phải lên toà giảng yêu cầu các bậc cha mẹ chấm dứt tình trạng đó bằng cách ngăn cấm con cái mình không được dấn thân vào những chuyện quái đản xảy ra không ngừng ấy.
Khi đọc những bản văn do cha Cros sưu tập, người ta có cảm tưởng đang phải đối diện với một thứ dịch tễ. Đây là những lời khai của các nhân chứng:
Sư huynh Léobard, giám hiệu các trường học ở Lộ Đức: “Ma quỷ đã khơi động lên vô số người thấy ảo ảnh. Người ta thấy họ dây vào những chuyện vô lý điên cuồng nhất. Họ có thấy gì không? – Có chứ! Và người ta có đủ lý do để tin rằng rất nhiều người trong bọn họ đã trông thấy Thần Ác dưới nhiều hình thức khác nhau. Nhiều học trò của tôi quả quyết rằng chúng đã thấy những cuộc hiện ra ấy. Chúng thường trốn học. Những chuyện kì dị của chúng không phải chì xảy ra ở Hang Đá, ở dòng suối, ở bên cạnh nhà thờ lớn, mà còn ở nhà của chúng, nơi chúng tạm thời dùng làm những nhà nguyện nho nhỏ…”.
Sư huynh Cérase: “Một đám trẻ con cả nam lẫn nữ tự cho rằng mình đã thấy Đức Trinh Nữ. Tôi có gặp một số đang trên đường đi tới Hang Đá. Chúng cầm đèn cầy trong tay và quỳ xuống gần những ao nước. Một hôm có người nói với tôi: ‘Cả con gái tôi cũng thấy Đức Trinh Nữ ở Hang Đá. Có biết bao người trông thấy Ngài!’. Tôi rất nghi ngờ những thị kiến của Bernadette, những thị kiến mà tôi chưa bao giờ được chứng kiến…”
Chính chúng tôi nhấn mạnh những dòng chữ cuối cùng này. Người ta thấy những thị kiến do ma quỷ nguỵ tạo ra gây nhiều bất lợi cho sứ điệp của Bernadette. Chúng ta sẽ có những bằng chứng khác về chuyện đó.
Chúng ta hãy theo dõi tiếp cuộc điều tra kiên trì của cha Cros mà chúng tôi mượn để trưng dẫn bằng chứng:
“Dominique Vignes, Marie Portau, Dominiquelle Cazenave, Ursule Nicolau… những nhân chứng tuyệt diệu: Tôi đã nhiều lần gặp những người ảo kiến ở Hang Đá. Họ cầm trong tay những bó hoa thiên nhiên, bứt bỏ những bông huệ và bông hồng rồi ném xuống suối Gave và nói: Đấng hiện ra không thích hoa huệ lẫn hoa hồng’.
“Tôi có nghe thấy một cô gái khoảng mười, mười một tuổi than van khóc lóc tru tréo trước cái hốc đá, hiện nay là chỗ ở cho người canh gác: cô bé thấy có “Đấng” hiện ra tại đó với cô. Người ta kính trọng cô bé cũng như những em “được thị kiến” khác. Người ta ôm hôn chúng một cách sùng kính”.
“Mỗi em trong đám đó cầm một xâu chuỗi. Nhưng mọi xâu chuỗi đều mới và chưa làm phép: chúng không thích những xâu chuỗi cũ hay đã làm phép. Chúng cầm chuỗi giơ lên cao, thánh giá trong xâu chuỗi ngang với tầm mắt, và lúc lắc xâu chuỗi trước mặt, chúng chạy theo đủ mọi hướng, người nghiêng về một bên, mặt thì nhăn nhó, và kêu la om sòm như những con chó nhỏ vừa chạy theo con mồi vừa sủa vang…”.
“Tôi thấy các em làm thành một đám rước đi từ suối Merlasse đến chỗ cái cột có bảng yết thị cấm tới hang đá. Tới đó, một em kêu lên: ‘Tất cả hãy xuống đây với tao, tụi bây sẽ thấy Đức Trinh Nữ!’. Các phụ nữ cũng đi cả đám theo chúng…”
“Một buổi tối, khi đêm đã xuống, một trong số các em bị ảo kiến đó, đầu có quấn vòng nguyệt quế, kêu lên: ‘Tất cả hãy lần chuỗi, cả Thiên Chúa cũng lần chuỗi nữa đấy!’. Tôi có giải thích cho các em thấy như thế là thế giới đã đảo lộn rồi, đời nào lại có chuyện Thiên Chúa cầu nguyện với Đức Trinh Nữ!… Nhưng vô ích! Người ta cũng bị lôi cuốn theo. Một lát sau em đó kêu lên: ‘Hãy hôn đất 40 lần! 40 lần!’. Những người tham dự đều hôn đất. Còn tôi, tôi cười, đồng thời bực bội vì trông thấy những trò ma quỷ đó”.
Cô Tardhivail: “Ngày nay người ta không thể quan niệm được sự nhẹ tin của dân chúng Lộ Đức thời đó: họ tin có các vong hồn lảng vảng trong không khí và trong lửa. Một tên vô danh nào đó vừa ở Saint-Pé tới, vào trong thành nói: ‘Tôi nhìn lên phía Hang Đá thì thấy Đức Trinh Nữ đang đi lại. Mọi người ở đó đều thấy Ngài’. Thế là cả một đám đông chạy lại Hang Đá, chị tôi và tôi cũng trong đám đó”.
Jean Domingieux: “Một hôm, tôi thấy một người bị ảo kiến thuộc họ đạo Ribère đứng trước Hang Đá, anh ta hô hào đám đông đang chen chúc nhau ở giữa con kênh và con suối Gave, và ở trong cánh đồng bên kia suối Gave, nơi tôi đang đứng: ‘Anh chị em hãy lấy tràng hạt ra, tôi sẽ làm phép tràng hạt’. Người ta lấy các xâu chuỗi ra, và anh chàng ảo kiến đó làm phép bằng nước ở Hang Đá”,
Trong số những “kì cục” của tất cả đám trẻ tội nghiệp đó, có một điều đáng lưu ý, là bọn chúng hay nhăn mặt cách dị hợm. Sau đây là những lời chứng về những chứng kì cục đó:
Anh phu tuần phiên Callet: “Một hôm, tôi đi theo một anh chàng ảo kiến tên là Barraôu tới chỗ máy xay. Tới gần một cái giường, anh bèn leo lên dọc theo những tấm màn, mặt thì nhăn nhó trông khủng khiếp: anh ta nghiến răng, hoặc chạm răng vào nhau kêu lập cập, cặp mắt anh trông có vẻ hoang dại”.
Bà Prat: “Một hôm tôi chứng kiến cảnh thằng Minino trông thấy thị kiến: nó kêu như lừa kêu, gương mặt nó trông khủng khiếp đến nỗi tôi không dám nhìn”.
Những nhân chứng khác cho chúng tôi biết về những cử chỉ ngu xuẩn của những người bị ảo kiến: có lần họ nhìn thấy Bernadette ăn cỏ. Người ta cũng hay nói về chuyện đó: nên họ thích bắt chước Bernadette ăn cỏ như thế, và như thế rõ ràng là họ đã làm cho hành vi đó bị hiểu sai ý nghĩa dầu họ không muốn, vì phần đông đã làm mà không ý thức được tầm quan trọng của việc mình làm.
Nhưng họ cũng có những sáng kiến khác biểu lộ điều họ tin:
Pauline Bourdeu: “Tôi thấy 12 đứa ở trong bọn cùng tới Hang Đá, đầu đội một vòng hoa”.
Basile Casterot: “Anh chàng bị ảo kiến tên S., đi ngang qua thành phố, mang trên đầu một băng vải mà anh ta lấy từ cái nón của một thiếu nữ. Anh nói: ‘Đức Trinh Nữ ra lệnh cho tôi làm điều đó’. Nhiều người đi theo anh ta. Một vài người bảo: ‘Hắn điên rồi!’ Nhưng đa số cho rằng anh ta được Đức Mẹ hiện ra.”
Bà Baup: “Trên đường tới Bois, một hôm tôi gặp anh chàng ảo kiến M. đang xuất thần, nhưng gương mặt bối rối lo lắng. Tôi lay hắn dậy, hắn không nói lời nào. Cuối cùng hắn ra khỏi cơn xuất thần và đột nhiên đứng dậy đi ra. Tôi hỏi hắn: ‘Mày thấy gì vậy?’. Hắn không muốn trả lời và cứ đi. Tôi nhấn mạnh hơn: ‘Mày thấy gì vậy?’ Cuối cùng hắn vừa tiếp tục đi vừa nói: ‘Thấy Đức Trinh Nữ bận áo dài trắng và mang triều thiên’.
Cùng lúc đó, cháu gái của tôi tới kiếm tôi, để rủ tôi tới xem ba hay bốn người ảo kiến khác trên cùng con đường đó. Nó nói với tôi: ‘Cô nên tới xem một cô bé đang xuất thần hay lắm!’. Tôi trông thấy cô bé tuổi từ mười đến mười một, đang quì gối, gương mặt trông khác hẳn. Lúc đó, một cô bé ảo kiến khác đi ngang qua, tay cầm đèn cầy cháy sáng. Tôi giật lấy cây đèn cầy và đưa ngọn đèn tới ngay trước cặp mắt của cô bé đang xuất thần ấy. Đôi mắt vẫn mở. Dần dần, cơn xuất thần chấm dứt, cô bé nói với chúng tôi: ‘Con trông thấy Đức Trinh Nữ bận áo dài trắng, mang thắt lưng xanh, và đội triều thiên trên đầu’. – ‘Ngài nói gì với con?’ – ‘Ngài nói với con: Con hãy về! Ta cần phải đi tới Hang Đá'”.
Tất cả những chuyện đó không phải là điều ác, nhưng chúng tạo ra những bất lợi rất lớn cho những lần hiện ra chân thực, tức những lần hiện ra với Bernadette, hiện nay đã chấm dứt và đang bị những lần hiện ra giả tạo lấn lướt và nhận chìm, tức những lần hiện ra cho những người bắt chước cô.
Thật vậy, người ta ngần ngại, người ta thắc mắc, người ta nghi vấn. Trong vô số những người thị kiến ấy, có những cái rất đáng nghi ngờ, trong số những phép lạ được dẫn chứng có những phép lạ hết sức khả nghi. Vì thế, chúng làm cho cả những đầu óc ưu tú nhất cũng phải hoang mang.
Một thí dụ cụ thể sẽ giúp chúng ta hiểu điều đó. Trong số những người được kể tới đầu tiên, trong số những người cứng tin trước những sự kiện ở Lộ Đức, có giám đốc Đại chủng viện Tarbes, cha Ribes, là người có đức tin mạnh hơn ai. Chính ngài thuật lại việc ngài đến Lộ Đức vào tháng 8.1858 ra sao. Cùng đi với ngài có một linh mục ngoại quốc. Cả hai cha tới đó hỏi thăm. Đầu tiên các ngài tới thăm Bernadette. Cô ấy vẫn là đối tượng hàng đầu trong thời sự ở Lộ Đức. Cô là người thấy Đức Mẹ hiện ra nhiều nhất. Hai người khách của chúng ta tới gặp cha mẹ của Bernadette và xin gặp cô. Cô đi vắng. Các ngài quyết định đi tới chỗ máy xay, nhờ cha cô dẫn đi. Và đây là cảnh họ chứng kiến tại đó. Cha Ribes nói:
“Từ nhà máy xay, chúng tôi tới Hang Đá bằng một con đường nhỏ dọc theo đồi Fort. Chúng tôi xuống dốc, thời đó rất hiểm trở và chẳng có cây cối gì cả, nhưng hiện nay đã có trồng nhiều cây xanh và đã trở nên dễ đi vì có những con đường làm theo hình chữ Z, mà các người hành hương thời nay đều biết. Chúng tôi tới trước mặt cái hang đá kì diệu ấy. Một tấm chắn bằng gỗ đóng kín lối vào hang. Tại đó có một em bé khoảng 12 đến 14 tuổi đang quì gối, đèn cầy cầm trong tay, tay kia cầm tràng hạt lần chuỗi, đang chào một nhân vật nhiệm màu và đi bằng đầu gối tới chân tảng đá. Mặt đất lên cao thành bậc thang. Nước thuỷ triều ở suối Gave dâng lên rút xuống tạo thành những bậc thang rộng và thoai thoải. Chúng tôi quan sát cậu bé đang bị ảo kiến này trong giây lát: gương mặt của nó co rúm lại trông rất xấu. Người bạn đồng hành với tôi nói với nó: ‘Ra chỗ khác đi! Con đang làm công việc của ma quỷ!’. Đứa bé giả bộ không nghe thấy, cứ tiếp tục công việc của nó: Một giọng nói sang sảng lập lại với nó: ‘Ra khỏi đây mau! Đi đi, nếu không Thiên Chúa sẽ trừng phạt con đó!’. Lập tức cậu bé ảo kiến thổi tắt ngọn đèn, leo lên chỗ tấm chắn và chuồn mất”.
Đó chỉ là việc làm đầu tiên trong cuộc điều tra của hai vị giáo sĩ. Kỳ thực, họ tìm kiếm, họ nghi ngờ, nhưng họ biết rằng nhờ cầu nguyện họ sẽ không bị sai lầm. Hãy nghe phần tiếp theo bài tường thuật:
“Chúng tôi cầu nguyện, chúng tôi uống nước suối, và chúng tôi tới cha sở. Bernadette đợi chúng tôi tại đó. Với lòng thành thật thường ngày của cô, cô kể lại cho chúng tôi những gì cô đã thấy, đã nghe ở Hang Đá. Tôi cho cô ta những nhận xét về ba điều bí mật: Tôi thấy những điều đó giống như những bí mật ở La Salette. Cô trả lời không do dự là cô đã nhận những bí mật này cho riêng cô thôi, cô không phải nói với ai cả, dẫu là với Đức Giáo Hoàng, và cô cảm thấy mình phải giữ gìn những bí mật đó”.
“Linh mục đồng hành với tôi tuyên bố rằng ngài tin. Còn tôi, tôi chưa tin chắc lắm! Tôi nói với ngài: ‘Tôi sẵn sàng tin, nhưng tôi còn muốn có thêm chứng cớ nữa!'”
Cha sở Lộ Đức lúc đó đã tin một cách hoàn toàn và chính đáng tính chính thống của sự kiện Đức Mẹ hiện ra với Bernadette, nên sự do dự của tôi đã làm ngài hiểu lầm. Vài ngày sau, ngài có viết thư cho Đức Giám mục phàn nàn về chuyện đó:
“Làm sao Đức Cha muốn người ngoại quốc thêm niềm tin vào việc Đức Mẹ hiện ra được, khi mà các vị Giám đốc Đại chủng viện lại tuyên bố chống lại?”.
Tuy nhiên năm sau, cha Ribes trở lại Lộ Đức dâng thánh lễ tạ ơn cho một trường hợp khỏi bệnh nhờ uống nước suối Lộ Đức. Lúc đó, cha sở nói với ngài: “Cha phải tạ lỗi với Đức Trinh Nữ vì cha đã đối nghịch với Ngài”.
Tuy nhiên, cha Giám đốc Đại chủng viện đã có lý khi chỉ muốn chấp nhận với những chứng cớ chắc chắn. Và tháng 8.1858, những chứng cớ vẫn còn được đem ra bàn cãi và thực sự cũng cần được bàn cãi. Như chúng tôi đã từng nói, ma quỷ đã nhận chìm sự thật vào giữa đám dối trá tức những lần hiện ra bằng ảo giác, những phép lạ mạo danh. Người ta hiểu rằng ông cò Jacomet lúc đó đã có thể viết cho ông tri huyện về điều đó, khi một uỷ ban của Đức Giám mục được thành lập để khảo cứu những sự kiện đó:
“Những người có lý trí và sùng đạo thực sự tự hỏi làm sao người ta lại dám để cho hàng giáo phẩm cấp cao phải can thiệp vào những chuyện trá nguỵ đang xảy ra đó?”
Tuy nhiên, uỷ ban đó đã được ông tri huyện chấp nhận. Và ông tin chắc ông sẽ làm cho uỷ ban kết án thẳng thừng mọi chuyện về vụ thị kiến đó, kể cả những thị kiến của Bernadette, là những thị kiến khởi đầu cho những rắc rối này! Ông Massy, tri huyện Tarbes nói:
“Một uỷ ban được thành lập có nhiệm vụ nhận định về những phép lạ ở Lộ Đức. Trong khi thi hành nhiệm vụ đã được uỷ thác này một cách có lương tâm và không thành kiến, uỷ ban có quyền chấm dứt tình trạng đáng buồn này… Tôi sẵn sàng cung cấp tin tức, tài liệu để đánh giá đúng mức những sự kiện được cho là siêu nhiên mà người ta đang tìm cách tạo ra”.

NHỮNG KẾT LUẬN CỦA THÁNH BỘ PHỤNG TỰ
Vô số những trò bắt chước ấy đang cố bóp méo tính chân thực của việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette, nếu chúng phát xuất từ ma quỷ đúng như những đầu óc ưu tú đã suy nghĩ, thì phải công nhận rằng ma quỷ đã không tính sai nước cờ của nó. Những sự việc chúng tôi thuật lại đã được chính quyền dân sự biết tới, ít ra là một phần nào đó. Chúng ta đừng ngạc nhiên về điều ấy. Vì bổn phận của chính quyền là phải bảo vệ trật tự xã hội, trật tự này đã bị phá rối một cách rất thường xuyên và rất rõ rệt chung quanh hang đá Lộ Đức và trong tất cả những làng mạc lân cận. Vì thế chính quyền đã rất tán thành lá thư của Bộ Trưởng Thánh bộ Phụng Tự, Hồng y Rouland, gởi cho Giám mục giáo phận Tarbes là Đức Cha Laurence, đề ngày 30.7.1858. Lá thư này đề cập đến quá nhiều vấn đề nên không tiện trưng dẫn toàn bộ ở đây:
“Kính thưa Đức Cha, những tin tức mới mà tôi nhận được về vụ Lộ Đức, theo tôi, có lẽ là một chuyện tự bản chất có thể làm cho mọi người chân thành sùng đạo đau buồn sâu xa.
Việc trẻ con làm phép chuỗi Môi Khôi, những biểu hiện tôn giáo mà trong đó hàng đầu lại là những phụ nữ kém tư cách, việc các em bị ảo kiến đội vòng hoa, những nghi thức kì quái, những trò bắt chước nhái lại y hệt các lễ nghi tôn giáo, sẽ mở lối cho các báo chí Tin Lành và một vài tờ báo khác tấn công, nếu giáo quyền trung ương không can thiệp vào để làm dịu bớt lòng háo thắng bút chiến của họ.
Những cảnh không đẹp ấy chắc chắn sẽ làm mất uy tín của tôn giáo dưới con mắt của dân chúng. Vì thế, kính thưa Đức Cha, tôi nghĩ rằng tôi có bổn phận phải một lần nữa yêu cầu Đức Cha hết sức lưu tâm đến những sự kiện ấy.
Ngài sẽ dễ dàng hiểu rằng việc thiết lập một nơi hành hương mới, tự nó, không thể tạo nên một mối nghi ngờ nào cho chính quyền cả. Ngay từ khi xảy ra những biểu hiện đầu tiên ấy tại Hang Đá Lộ Đức, nếu tôi can thiệp mạnh để nó không tiếp tục xảy ra, thì những tin tức chính xác phát xuất từ nhiều nguồn khác nhau sẽ không cho phép tôi thấy được điều gì nghiêm trọng hay có giá trị trong nguồn gốc, hoặc trong diễn tiến, hoặc trong kết quả của cái phong trào bình dân này.
Những biến cố đó khiến tôi phải có những dự liệu trước: Sự kiến số người ảo kiến và xuất thần ngày càng gia tăng nhắc chúng ta nhớ lại những cảnh tượng đáng tiếc nổi tiếng đã xảy ra vào thế kỷ 18, và sự kiện có những đám đông điên khùng tụ tập bên bờ suối Gave vào thời này, những sự kiện đó sẽ biện minh cho những biện pháp mà Giáo quyền đã phải áp dụng.
Những biểu hiện đáng tiếc ấy, theo tôi, có lẽ đã làm cho hàng giáo phẩm mất đi sự dè dặt đã từng bảo vệ mình cho tới nay.
Cuối cùng, về điểm này, tôi chỉ biết khẩn cấp kêu gọi Đức Cha hãy hết sức cẩn thận và cũng hết sức kiên quyết trong việc công khai khống chế những lạm dụng tương tự…”
Trong lá thư đó, người ta không thể không nhìn thấy một mệnh lệnh thực sự, tuy rất lịch sự nhưng cũng rất dứt khoát. Khi nói một cách bóng gió nhưng rõ ràng đến những lộn xộn trong lịch sử ở nghĩa trang Saint-Médard vào thế kỷ 18, Bộ trưởng Thánh Bộ Phụng Tự mong muốn, chờ đợi, yêu cầu Giám mục Laurence phải can thiệp, và sự can thiệp này dường như phải là và chỉ là sự khống chế tổng quát và lên án tất cả mọi câu chuyện về sự kiện Đức Mẹ hiện ra, kể cả việc hiện ra với Bernadette vốn là khởi đầu cho những sự kiện khác tương tự.
Nếu Đức Giám mục tuân hành sự thôi thúc ấy, nếu ngài can thiệp vào những sự việc đó bất chấp lời khuyên của Phaolô: “Hãy giữ lại những gì tốt đẹp.” thì Satan đã chiến thắng rồi.

SỰ GANH ĐUA GIỮA CÁC LÀNG
Nỗi nguy hiểm mà chúng tôi nói đến đâu có thể coi thường được, nên vào một ngày tháng 7.1858, Đức Giám mục được một cha sở ở vùng chung quanh Lộ Đức báo cho biết về những trường hợp cả tập thể bị kích động vừa xảy ra. Những thị kiến siêu nhiên mới đây đây đã leo thang, không phải chỉ ở Lộ Đức, mà còn ở những làng lân cận nữa. Tại Lộ Đức, biết bao người nghĩ rằng họ sẽ trổi vượt hơn cô bé Bernadette nghèo nàn, vì theo sự suy nghĩ của quần chúng, cô khó mà xứng đáng được Đức Trinh Nữ ưu tiên chọn hơn những người khác.
Ngày 9.7, cha sở họ Ossen là Pierre Junca viết cho Đức Cha Laurence một lá thư trình bày cho ngài biết những gì đang xảy ra trong họ đạo của cha.
Một thiếu niên 10 tuổi tên Laurent Lacaze muốn tới Hang Đá sau khi học hành buổi sáng ở trường. Hôm đó là ngày 2.7, nó nài xin cha mẹ cho phép đến nỗi hai ông bà đã nhượng bộ nó. Vào giữa trưa, Laurent cùng với đứa em trai 8 tuổi của nó tới trước Hang Đá. Nó lần chuỗi. Khi ngước mắt lên, nó thấy “một phụ nữ mặc áo trắng, tay trái bồng một em nhỏ. Em nhỏ này tay phải cầm một cụm ba bông hồng đỏ, đầu đội một mũ trùm đỏ có ba bông hồng trắng được buộc bằng một băng vải đỏ.. Người nữ tay mặt cầm một cụm ba bông hồng đỏ. Cánh tay phải có quàng một băng vải lớn màu đỏ có viền hoa, và thõng xuống một tràng hạt xinh xắn. Bà đội mũ trùm đầu màu trắng được trang hoàng bằng một băng vải trắng. Hai bên bà là hai người đàn ông, một người đứng bên phải, một người bên trái, đều mặc đồ đen, đầu đội bê-rê xanh. Đàn ông bên phải có bộ râu dài trắng. Người phụ nữ và hai người đàn ông đều mang giầy đen”.
Trong lá thư của cha sở có ghi toàn bộ mô tả trên. Cậu bé lacaze có nhiều thì giờ để thấy chi tiết cái thị kiến lạ lùng của cậu. Người phụ nữ yêu cầu cậu phải trở về ban chiều. Cậu đã vâng lời. Và cậu lại thấy những nhân vật ban sáng, và tất cả những người đó đi theo cậu trên con đường hướng về làng Ossen, mang theo đứa nhỏ và mẹ nó đi với cậu. Dọc đường, người phụ nữ đùa với những trò vui vẻ trẻ con của Laurent… Những ngày kế tiếp, Laurent Lacaze lại đến thăm viếng Hang Đá, và lại thấy những người đó hiện ra. Nhưng kể từ đấy, có nhiều người vây quanh nó. Người ta đi theo nó thành một đám rước. Được báo tin, cha sở nghĩ rằng cần phải rảy nước thánh lên cậu bé và lên nơi mà nó nói là thấy người phụ nữ đó. Nhưng dường như không có kết quả bao nhiêu.
Đó là những câu chuyện nghe phát chán. Nhưng dân chúng Ossen láo nháo cả lên. Người ta ghét cha sở vì ngài tỏ ra nghi ngờ. Còn cha thì phải hỏi ý kiến Đức Giám mục để biết phải hành xử ra sao. Trong thời gian đó, lại có những em khác thấy ảo kiến nữa: Jean-Marie Pomiès, 13 tuổi và Jean-Marie Sarthe, 10 tuổi. Cậu sau ở làng Ségus, một làng khác gần bên. Nhưng những thị kiến của nó không kéo dài. Cha sở và nhiều người khác ra lệnh cho nó ở nhà. Nó vâng lời và mọi sự đều chấm dứt.
Hai đứa trẻ làng Ossen, trái lại, tiếp tục việc làm sai trái của chúng. Người ta nói với chúng tôi về hai đứa đó như sau: “Trong một thời gian khá lâu, chúng bị theo đuổi và ám ảnh bởi cuộc hiện ra đó. Ngoài đường cũng như trong nhà, chúng chạy theo “đấng hiện ra” như thể chúng săn đuổi “ngài”. Tiếng kêu la của chúng thường giống như những tiếng tru tréo, cử chỉ cũng như những vận động của chúng không luôn luôn hoà nhịp với nhau. Nhiều lần người ta cảm thấy chướng mắt vì những cái họ thấy không thích hợp và mất trật tự. Cha mẹ chúng cứ ngỡ là mấy đứa con của mình thấy Đức Trinh Nữ thật, nên tự ái của họ, sự hãnh diện của họ đã góp phần làm cho những cảnh đáng tiếc này lâu chấm dứt”.
Những dòng chữ đó là của cha sở họ Ségus.
Ông Jean Vergez, thôn trưởng làng Ossen, cũng quan sát những gì xảy ra về phía ông. Cha Cros đã thuật lại những lời chứng của ông như những gì ta vừa thấy. Rõ ràng là cậu bé Lacaze thực sự có những thị kiến. Những người chứng kiến không thể nghĩ gì khác hơn cho đó là Đức Trinh Nữ hiện ra. Tại sao lại không thể nghĩ như thế? Chẳng lẽ chỉ có Bernadette Soubirous là độc quyền thấy ngài sao? Cha mẹ của Laurent Lacaze không cho Bernadette là độc quyền. Ông thôn trưởng tìm hiểu họ, và viết:
“Gia đình Lacaze không làm việc. Họ vui vẻ, nhất là người cha, về những gì xảy ra cho đứa con của họ. Buổi tối tôi gặp cha của Lacaze đi cắt cỏ. Tôi nói với ông: ‘Ông đã mất một ngày’. Ông ta trả lời: ‘Phải, nhưng tối thiểu chúng tôi được một xã hội tốt đẹp ở nhà, xã hội của Đức Trinh Nữ’.
Nhưng không phải chỉ có thế. Theo sự xác nhận của ông thôn trưởng, thì trong đám trẻ con trong làng, có những chuyện đáng ngạc nhiên. Chẳng hạn, Laurent Lacaze, chỉ biết nói thổ ngữ, hiện đang học tiếng Pháp. Nhưng còn cái đáng ngạc nhiên hơn. Hãy nghe ông thôn trưởng nói:
“Một hôm tại nhà Lacaze, Jean-Marie Pomiès, một cậu bé 13 tuổi, đang đứng cách cái cửa sổ trổ ra sân gà vịt khoảng 2 mét. Cửa này cao 60cm, rộng 43cm, và cao cách mặt đất hơn 1 mét. Bỗng nhiên đứa trẻ nhìn qua cửa sổ đó thấy Đức Mẹ hiện ra trong sân gà vịt, thế là tôi thấy nó nhảy qua cửa sổ nhanh như một mũi tên, không đụng vào thành cửa sổ, và đáp xuống bằng chân trong sân gà vịt, rồi chạy theo ‘đấng hiện ra’.
Cảnh tượng này làm tôi kinh sợ đến nỗi tôi ra về ngay, và khi về tới nhà, tôi nói với vợ tôi: ‘Anh không thể nào tin vào những chuyện này được. Anh sẽ không trở lại đó nữa'”.
Cha Cros có đưa ra những lời chứng về chính sự kiện đó. Ngài quả quyết rằng ngài đã khảo sát các nơi và thấy có những sự kiện “không thể giải thích theo cách tự nhiên được”. Ngài thêm rằng các em bị ảo kiến đó còn có một quái trạng chung khác: chúng sợ những tràng hạt đã làm phép, và chỉ thích những tràng hạt mới chưa làm phép. Không đồ vật đã làm phép nào trao cho chúng mà được trả lại bao giờ.
Đức Cha Laurence đã nhận được những bài tường thuật xác thực và chi tiết về tất cả những sự kiện này. Ngày 12.7.1858 ngài trả lời cho cha sở Ossen:
“Tôi coi hai em bé Lacaze và Pomiès bị ảo kiến như bị bệnh thần kinh. Cần phải đối xử với chúng như vậy. Không có gì là siêu nhiên trong những cái chúng thấy được cả, tôi phán đoán như vậy chắc chắn không sai. Một Đấng ở trên trời không thể nói những lời vô nghĩa, không đùa giỡn, cũng không suồng sã. Nếu những trẻ em này nói hay làm những gì không xứng hợp, thì phải rầy la và đối xử nghiêm khắc với chúng”.
Nhưng Đức Giám mục sẽ phải sửa đổi mệnh lệnh của mình trước khi được dân chúng đón nhận và tuân giữ. Những người bị ảo kiến ở Ossen còn tiếp tục những trò kì cục của họ một thời gian nữa. Càng ngày càng có thêm các chứng cớ cho rằng người ta theo phe các tiên tri trẻ, ngưỡng mộ chúng, nghe lời chúng. Người ta quì gối xuống khi đi ngang qua nhà Lacaze, để cầu nguyện với Đức Trinh Nữ. Người ta thích ngủ cùng phòng với các em có ảo kiến. Tại toà giảng, cha sở có nói về lá thư của Đức Giám mục, nhưng vô ích. Lá thư nói rằng cần phải cấm các trẻ em dưới 15 tuổi tới Hang Đá, và không cho phép những đứa khác liên lạc với những đứa bị ảo kiến. Người ta không chịu tin lời cha sở cho tới khi ngài đưa cho họ xem thấy lá thư. Em gái cha sở là Francoise Junca còn thêm: “Các làng lân cận còn ghen với làng Ossen. Còn chúng tôi, chúng tôi phải chịu trách nhiệm về việc này: anh tôi mất ngủ vì nó”.
Trong câu nói trên, ta thấy có sự ghen tương của các làng khác đối với làng Ossen. Một sự ghen tương kiểu đó cũng xảy ra đối với làng Lộ Đức.
Một phụ nữ ở làng Omex, một làng lân cận khác, kể lại: “Một hôm tôi đứng trước Hang Đá. Các trẻ em bị ảo kiến ở Ossen và nhiều em khác ở Lộ Đức đang ở trong hốc đá, nơi ma quỷ hiện ra với chúng. Bỗng nhiên từ trong lỗ hổng phát ra một giọng nói rất nhỏ nhẹ, giống như giọng nói của một đứa trẻ dễ thương. Giọng đó nói: ‘Trong thung lũng Batsurguère, và nhất là ở Ossen, có rất nhiều người dũng cảm, còn ở Lộ Đức thì chỉ toàn là đồ hạ tiện thôi’. Lúc đó tôi nói trước mặt mọi người: ‘Người nào nói như thế thì còn ma quỷ hơn cả ma quỷ nữa. Đức Trinh Nữ không coi thường ai, càng không coi thường những người cần ăn năn hối cải'”.
Những người chứng kiến bị dao động và chia rẽ nhau. Một phụ nữ làng Ossen cảm thấy mát ruột vì những lời nịnh nọt chị vừa nghe, đến nỗi chị muốn biến đổi phòng mình thành một nhà nguyện kính Đức Mẹ nếu ông chồng của chị không phản đối. Người đàn bà khốn khổ ấy cuối cùng bị điên và chết năm ấy.
Chúng tôi nói về những sự việc ấy đủ để người khác có thể đo lường được phần nào sự lan rộng những rối loạn do biết bao nhiêu trò ma quỷ như thế gây ra tại Lộ Đức và những làng kế cận, và để người khác hiểu được sự thận trọng mà vị Giám mục cần thiết phải có để nhận ra được phương hướng giải quyết trước tất cả những biểu hiện kì quái ấy của ma quỷ. Nếu ma quỷ muốn làm giảm uy tín việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette bằng cách trộn lẫn vào đó vô số những lần hiện ra giả hiệu kì quái, thì có thể nói ma quỷ đã gần đạt được mục đích của nó. May thay, Đức Cha Laurence đã không quá nghiêm khắc. Ngày 28.7.1858, ngài kí một lệnh chỉ thành lập một uỷ ban điều tra việc Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức. Nhưng điều đáng lưu ý ngay từ nguyên tắc là uỷ ban này đã chỉ định đích danh một mình Bernadette làm đối tượng cho việc điều tra có tính cách quyết định này.
Theo lệnh chỉ, vấn đề là không phải vô số các sự kiện mà chúng tôi đã sưu tập trong chương này. Dưới mắt của những người có đầu óc thì tất cả những chuyện đó chỉ là tưởng tượng, là khoác lác, là kì cục, và có thể là ma quái. Thấy chúng được sưu tập ở đây, độc giả có thể ngạc nhiên về số lượng của chúng, về những tiếng đồn, về sự lạ thường của chúng, và có thể nhờ phản tỉnh, quan niệm được những ấn tượng không đẹp về những chuyện xảy ra ở Lộ Đức. Tuy nhiên nếu độc giả suy tư về chuyện đó, thì độc giả sẽ chỉ xúc động nhiều hơn khi thấy bóng tối dày đặc như thế đã bị xua tan và ánh sáng tỏ hiện một cách hết sức đơn giản và dường như hết sức tự nhiên.
Uỷ ban của các Giám mục bắt đầu ngay công việc của mình. Vì mọi người đều nhận thấy sự đơn sơ, kiên trì, thẳng thắn và sự chân thực rất rõ ràng nơi Bernadette, và mặt khác vì những phép lạ xảy ra ở Hang Đá thời gian đó lần này được công nhận là phép lạ đích thực thật là kì diệu, nên chỉ trong vòng hơn 3 năm, Đức Cha Laurence đã long trọng công nhận những biến cố Lộ Đức y như chúng ta đã được biết đến qua cuộc sống của Bernadette.
Nhưng chắc chắn độc giả sẽ hiếu kì muốn biết những xảy đến cho đám người bị ảo kiến mà ma quỷ đã lợi dụng để khai thác trong toàn vùng Lộ Đức suốt nhiều tháng trời đó.

NHỮNG NGƯỜI ẢO KIẾN Ở OSSEN
Khi cha Cros điều tra lịch sử một cách hết sức tỉ mỉ vào năm 1878, thì ngài cũng có tìm hiểu những người đã bị ảo kiến ở Ossen ngày trước. 20 năm qua, họ đã trưởng thành một cách tự nhiên. Những kinh nghiệm của năm 1858 còn lại gì trong trí họ?
Không có gì hoặc hầu như không có gì. Họ đã trở nên những Kitô hữu rất tốt. Cả hai anh em Laurent Lacaze và Jean-Pierre Pomiès đều có tên trong số những người giúp lễ chính, khi có rước kiệu Thánh Thể trong họ đạo. Cha Cros có hỏi họ. Laurent Lacaze, người đầu tiên, nói với ngài rằng anh ta hầu như không còn nhớ gì về những việc làm và cử chỉ của mình hồi năm 1858 nữa. Anh ta nói:
“Con nhớ rằng con đi tới Hang Đá với những đứa trẻ khác, và con thấy một loại bóng đen, nhưng con không còn ý niệm là cái đó có chân tay hay không, là đàn ông hay đàn bà. Con không nhớ con đã làm gì trên đường từ Lộ Đức tới Ossen”.
Đối với đa số những người còn nhớ rõ hơn một chút, thì “loại bóng đen” mà Laurent đã trông thấy hồi đó chỉ có thể là ma quỷ!
Đến lượt Jean-Pierre Pomiès, khi được cha Cros hỏi tới, anh tuyên bố:
“Con thường tới Hang Đá vì bị hấp dẫn bởi tiếng đồn về những chuyện phi thường tại đó. Trong thời gian lui tới đó, con được thị kiến 2 lần: lần thứ nhất con thấy trong hốc đá một bóng sáng lòa, ở giữa lại có một bóng đen khá dày. Bóng sáng đó không đỏ cũng không trắng, cao khoảng 1 mét. Con không thấy rõ hình dáng của nó. Thấy như vậy khoảng 15 phút. Lần thứ hai con cũng thấy như vậy, nhưng con rất kinh ngạc về những chuyện xảy ra cho cô bé cũng được thị kiến. Con quì gối giữa cô ấy và một cậu bé. Cả ba cùng thấy rõ cái bóng sáng đó. Bỗng nhiên cô bé đưa tay tới trước về phía bóng sáng đó, thì cây đèn cầy mà cô ta cầm trên tay đột nhiên biến mất, mà không biết là nó biến đi đâu. Chúng con rất là ngạc nhiên về điều ấy”.
Như vậy là Jean-Pierre Pomiès cũng chỉ thấy một “bóng đen khá dày” với một bóng sáng không đỏ không trắng nhưng rất mạnh.
Người ta còn nhớ chính anh ta đã nhảy vèo một cái qua cửa sổ hẹp, nhảy ra rồi lại nhảy vào, với một sự khéo léo siêu nhân. Nhưng vào năm 1878, người ta có thể viết về anh ta và người đồng sự với anh ta là Laurent Lacaze như sau:
“Họ sống rất ngay thẳng và đạo hạnh. Ma quỷ gian trá đã lợi dụng sự ngây thơ của họ, nhưng cả hai không ai chịu làm tay sai cho Satan cả!”.
Đó là chứng từ của cha Cros, sau khi đã thấy và đã nghe họ nói.

NHỮNG NGƯỜI ẢO KIẾN Ở LỘ ĐỨC
Cái khả năng quên đi nhanh chóng đó cũng được nhận thấy nơi vô số người đã bị ảo kiến tại Lộ Đức ngày trước.
Cha Cros không quên phỏng vấn họ. Ngài nhận thấy phần đông chỉ nhớ được một cách rất mơ hồ về những ảo kiến mà họ thấy trong các năm 1858-1859. Sau những vụ hiện ra đó ít lâu, cha phó ở Lộ Đức là Serrès, khi tiếp xúc thường xuyên với các trẻ em học giáo lý đã nhận xét rằng: phần lớn các trẻ em ấy lúc đó đã tới tuổi rước lễ lần đầu, chỉ còn nhớ một cách mơ hồ và lẫn lộn những gì đã hiện ra với chúng ở Hang Đá hay ở những chỗ khác. (Ở Lộ Đức cũng như ở nhiều địa phận khác tại Pháp, trẻ em rước lễ lần đầu khoảng 12 – 14 tuổi).
Nhưng cha Cros đã hỏi một vài người lớn bị ảo kiến, lớn hơn chúng 20 tuổi. Đây là câu trả lời của Alexandre-Francois L., một người ở trong số đó:
“Tôi không thích đi chơi vớ vẩn, và tôi giữ cái tính đó mãi. Vì thế, nếu các bạn bè không lôi kéo tôi, thì tôi đã không đến Hang Đá… Vì thế tôi cùng với họ leo lên cái hốc đá phía trên và tôi quì gối xuống cầu nguyện.
Lúc đó tôi thấy một thị kiến trắng như tờ giấy này: Đó là một thứ hình người, nhưng tôi không thấy rõ mặt mũi tay chân. Ngay khi những đứa trẻ nói lên, thì tôi không thấy nữa. Tôi bảo những người khác im lặng và thị kiến lại trở lại. Tôi thấy nó trở lại ít nhất 5 lần. Ai muốn tin thì tin, nhưng tôi đã thấy và thật là đẹp mắt”.
Một người khác được cha Cros gọi là “người nổi tiếng nhất trong số những người bị ảo kiến ngày xưa”, nay đã trở thành cha của bốn đứa con, tới lượt anh ta nói:
“Tôi đã chứng kiến một hay hai lần việc Đức Mẹ hiện ra với Bernadette, và tôi rất cảm xúc như bao nhiêu người khác. Nhưng tôi không nghĩ về nó nhiều, thì một ngày kia, khi đi dạo ở cạnh khu rừng với một đứa trẻ cùng tuổi, chúng tôi cùng đi xuống Hang Đá.
Khi ở đó cầu nguyện, tôi thấy trước mắt có một cái gì đó hình khuôn mặt người. Tôi bật cười rồi bật khóc, và người ta cho rằng tôi thấy thị kiến. Tôi nói với bạn tôi những gì tôi thấy.
Các phụ nữ tới tìm tôi tại nhà và dẫn tôi tới Ribère. Một vài lần tôi không thấy gì cả. Những lần khác, tôi cũng thấy như trước, và tôi kêu lên: Hãy quì gối xuống! Hãy hôn đất!, vì tôi sợ. Tôi trông thấy cái hiện ra đó đi từ cây này sang cây khác trong đồng cỏ.
Tôi yêu cầu người ta đưa tràng hạt của họ cho tôi, và tôi nhúng những tràng hạt đó xuống suối Gave, vì ý tưởng đó đến với tôi như vậy.
Một hôm, chỉ có một mình tôi tại Hang Đá, và tôi trông thấy thị kiến. Vị linh mục, người đã cho trồng những cây thánh giá trên đỉnh đồi Ger, tới đó và bảo tôi: ‘Hãy ra khỏi đó đi! Cái con trông thấy thì nghịch hẳn với sự hiện ra thực sự’. Và tôi bỏ đi.
Những đứa trẻ khác nhăn mặt lại như tôi, và chúng la hét. Nhưng tôi không biết chúng la hét gì. Tôi sợ. Tôi chỉ tới đó một mình vào ban ngày. Ban đêm tôi không dám đi nếu các phụ nữ không đến tìm tôi.
Họ tin rằng tôi trông thấy Đức Trinh Nữ. Thỉnh thoảng vào lúc 10 giờ, 10 giờ rưỡi, chúng tôi trở về. Các phụ nữ hỏi tôi: ‘Mày thấy gì vậy?’. Tôi trả lời: ‘Đức Trinh Nữ!’. Thực ra tôi thấy một khuôn mặt đàn ông. Khuôn mặt này thay đổi thường xuyên. Thỉnh thoảng nó có râu. Một lần tôi trông thấy nhân vật đó mặc đồ trắng, tôi không nhớ nhận xét tay chân của ông ta.
Tất cả những cái đó hiện giờ lẫn lộn với nhau. Tôi không thể nói nó là cái gì…”
Đó là tất cả những gì cha Cros đã sưu tập được một cách chính xác về tất cả các thị kiến cách đây 20 năm. Nói chung, tất cả những người ảo kiến cũ đều rất quả quyết về hai điểm này: Một, là không ai thúc đẩy hay xúi giục họ nguỵ tạo ra những thị kiến cả, nó đến với họ là do họ, hoặc do ma quỷ – chúng tôi nói dựa theo rất nhiều người khác nữa; hai, là cảnh sát, ông cò, hiến binh, tuần phiên luôn luôn chống lại việc làm không tốt ấy của họ.

KẾT LUẬN
Chúng tôi không biết kết luận gì khác với kết luận của cha Cros, là người đã nghiên cứu kĩ lưỡng toàn bộ hồ sơ này, mà chúng tôi đã trích dẫn phần nào trong đó. Ngài tin chắc rằng Satan thực sự là tâm điểm tất cả những biểu hiện ấy, vì tại đó có một sự hội tụ, một thứ tự, một mưu chước, không thể là một đặc tính của một người nào trong số những nhân vật đã từng đóng một vai trò trong đó. Giống như trong một bài hợp xướng cổ, chúng ta nghe thấy tiếng hát, còn người điều khiển ta không trông thấy thì không ai khác hơn là ma quỷ. Người điều khiển buổi hoà nhạc là Satan. Đó là mấu chốt để giải thích một cách hợp lý những chuyện quái đản mà chúng ta đã thấy. Chỉ vậy thôi, Satan không thể làm gì khác hơn là để móng vuốt của nó vào những bố trí khéo léo nhất của nó. Nhờ ơn Chúa, nên luôn luôn có sự khác biệt giữa những người bị ảo kiến – dù là phụ nữ, thiếu nữ, cậu bé hay cô bé – được biểu hiện ra thời đó, với Bernadette rất an bình và trầm tĩnh, khác biệt đến nỗi không ai có thể lầm lẫn được, và sự phân biệt thiện ác, chân giả được thực hiện chính xác.
Chúng ta hãy đưa ra thẩm định cuối cùng của cha Cros mà chúng tôi cũng lấy làm thẩm định cho mình:
“Chúng tôi đã từng chứng minh cho thấy làm sao chứng cớ của linh thánh lại chính là kết quả của sự bất lực nơi những kẻ phản kháng mạnh mẽ nhất: những kẻ phản kháng dù là chính quyền hay ngoài chính quyền, không ai có thể chặn đứng biến cố đang xảy ra, hay làm chậm bước tiến của nó. Dưới mắt họ, biến cố chỉ là Bernadette, và Bernadette không là gì cả. Đám mây những người ảo kiến tan rã, lập tức người ta không hề nói tới nó nữa. Ngôi sao của người thị kiến chân thực đã chiếu sáng thâu qua đám mây ấy, và chính đám mây ấy lại được dùng để thẩm định sự thuần khiết của ánh sáng đó một cách chính xác hơn.
Vì thế sự phản kháng của hoả ngục cũng như sự phản kháng của con người đều bị thất bại. Có thời Satan được những người đạo hạnh trợ tá cho nó, vì họ đã bị yêu thuật của nó lừa phỉnh: không có gì đáng sợ hơn có thể tưởng tượng được. Tuy nhiên, chính đám mây này dù đen tới đâu, thì công trình của Thiên Chúa vẫn xuyên thấu. Sự bảo hộ của ma quỷ dù có năng lực tới đâu cũng trở thành vô ích đối với những người ảo kiến, và khi những khuôn mặt nhăn nhó đã biến mất, thì gương mặt của Bernadette vẫn chiếu sáng như trước, nhưng chiếu sáng bằng sự chân thành, bằng sự bình an đã trở thành duyên dáng hơn”.
Ngày kỉ niệm 100 năm vừa chấm dứt ở Lộ Đức vào đầu năm 1958, là một bằng chứng của sự vinh quang từ nay sẽ bao quanh tên của cô bé Bernadette Soubirous khiêm nhường, là người đã thấy Đức Trinh Nữ năm 1858! Tuy nhiên, chúng ta đừng quên rằng: Bernadette, một cô nông dân thấp hèn, cũng như cha sở họ Ars là con của nông dân, đã kết thúc cuộc đời tại tu viện Nevers. Vào giây phút cuối đời, cô đã phải chiến đấu với ma quỷ, cũng như cha sở họ Ars đã phải chiến đấu suốt cuộc đời ngài.
Trong giờ hấp hối, cô đã tỏ ra trong giây lát một nỗi sợ hãi lớn lao, và một trong những nữ tu giúp đỡ cô đã nghe cô nói một cách rất rõ ràng: “Satan hãy xéo đi!”.
Và vị thánh nhỏ này ít phút sau đó đã tìm lại được tất cả sự bình thản của mình, và đã chết trong một niềm bình an lớn lao đầy chiến thắng!

Xem thêm...

Generic selectors
Exact matches only
Search in title
Search in content
Post Type Selectors
Search in posts
Search in pages
Filter by Categories
Abouts
Audio Bài giảng
Bài giảng
Blog
Các Vua
Chúa Giêsu
Cựu ước
Gương Chúa Giêsu
Hạnh các Thánh
Hoạt hình
Hoạt hình Công giáo
Hôn nhân
Kinh thánh
Kinh Thánh 100 Tuần
Lời Chúa
Lòng thương xót Chúa
Mẹ Fatima
Mẹ Lộ Đức
Mẹ Maria
Mùa Chay
Mùa Giáng sinh
Mùa Phục sinh
Mùa thường niên
Mùa vọng
Phim Công giáo
Phim Cựu ước
Phim Giáo dục Đức Tin
Phim Giáo dục gia đình
Phim Tân ước
Phút cầu nguyện
Quà tặng cuộc sống
Sách Audio
Suy niệm
Suy niệm năm A
Suy niệm năm C
Tâm lý - Tình cảm
Tân Ước
Tạo dựng
Thần học Online
Thánh ca Mp3
Thánh Giuse
Thánh Nhân
Thủ lãnh
Tiên tri
Tin tức
Tổ phụ
Video Công giáo
Video Thánh ca
Video Ý nghĩa
VietCatholic New